The Alchemist – Nhà giả kim (p19)

Anh ta đã tốn rất nhiều tiền trong gia tài cha anh để lại, tìm kiếm trong vô vọng Hòn đá của Triết gia. Anh ta đã tốn rất nhiều thời gian ở các thư viện lớn trên thế giới, và đã mua tất cả những cuốn sách khó tìm nhất và quan trọng nhất trong các tập về Thuật giả kim. Ở một trong số đó anh ta đã đọc được rằng, rất nhiều năm trước, một nhà giả kim nổi tiếng người Ả-rập đã đến thăm châu Âu. Người ta nói rằng ông ta đã hơn 200 tuổi, và ông đã tìm ra được Hòn đá của Triết gia và Thuốc Trường sinh. Anh chàng người Anh ấn tượng câu chuyện một cách sâu sắc. Nhưng anh ta đã không bao giờ nghĩ về nó hơn là một chuyện thần thoại, cho đến khi một người bạn của anh ta – trở về từ một cuộc du khảo khảo cổ học trên sa mạc, nói với anh ta về một người Ả-rập sở hữu những quyền năng đặc biệt.

“Ông ta sống ở ốc đảo Al-Fayoum”, bạn anh ta nói. “Và mọi người nói rằng ông ta đã 200 tuổi, và ông ta có khả năng chuyển bất kì kim loại nào thành vàng.”

Anh chàng người Anh không thể giấu nổi sự phấn khích. Anh ta bỏ tất cả những cam kết trước đó, và cầm một lượt những cuốn sách quan trọng nhất của mình, và giờ anh ta đang ở đây, ngồi trong một nhà kho bụi bặm, bốc mùi. Ngoài kia, một đoàn diễu hành khổng lồ đang chuẩn bị băng qua sa mạc Sahara, và đã lên lịch để đi qua Al-Fayoum.

“Mình sẽ tìm được nhà giả kim chết tiệt đó”, anh chàng người Anh nghĩ. Mùi của lũ súc vật trở nên dễ chịu hơn một chút.

Một anh chàng Ả-rập trẻ tuổi, cũng chất đồ xuống, bước vào và đón chào anh người Anh.

“Anh đi đâu vậy?” anh chàng trẻ tuổi Ả-rập hỏi.

“Tôi sắp đi vào sa mạc”, người đàn ông trả lời, rồi quay trở lại với việc đọc sách. Anh ta không muốn có bất kì câu chuyện nào vào lúc này. Điều anh ta cần làm là xem lại tất cả những gì anh ta học được trong suốt các năm qua, vì nhà giả kim chắc chắn là muốn kiểm tra anh ta.

Anh chàng Ả-rập lấy ra một cuốn sách và bắt đầu đọc. Cuốn sách được viết bằng tiếng Tây Ban Nha. “Tốt đây,” người Anh nghĩ. Anh ta nói tiếng Tây Ban Nha tốt hơn là tiếng Ả-rập, và nếu cậu chàng này cũng đến Al-Fayoum, sẽ có người để nói chuyện khi không có chuyện gì quan trọng để làm.
*

“Thật là lạ”, cậu chàng nói, khi cậu cố gắng đọc lại lần nữa cảnh chôn cất – cảnh bắt đầu trong cuốn sách. “Tôi đã cố trong 2 năm để đọc cuốn sách này, và tôi không bao giờ đọc nổi quá vài trang đầu.” Ngay cả không có vị vua ở đấy để cắt ngang, cậu cũng không bao giờ tập trung nổi.

Cậu vẫn có chút nghi ngờ về quyết định của mình. Nhưng cậu đã hiểu được một điều: Ra quyết định chỉ là sự bắt đầu của mọi thứ. Khi một người ra quyết định, anh ta thực sự dấn thân vào một tình huống mang anh ta đến những nơi mà anh ta không bao giờ mơ nổi khi anh ta mới quyết định.

“Khi mình quyết định tìm kho báu, mình đã không bao giờ tưởng tượng nổi là mình sẽ bay đến làm việc tại một cửa hàng pha lê”, cậu nghĩ. Và việc gia nhập đoàn lữ hành có thể là quyết định của mình, nhưng mọi việc sẽ như thế nào lại là một bí ẩn với mình.

Gần đó là một người Anh, đang đọc cuốn sách. Anh ta trông có vẻ không thân thiện và nhìn có vẻ kích động khi cậu bước vào. Họ có thể trở thành bạn bè, nhưng anh chàng người Anh đã ngăn câu chuyện.

Cậu đóng sách lại. Cậu cảm thấy cậu không muốn làm gì khiến cậu trông giống anh chàng người Anh. Cậu lấy Urim và Thummim từ trong túi và bắt đầu chơi với chúng.

Người lạ thốt lên: “Urim và Thummim!”
Trong tích tắc, cậu bỏ chúng lại vào túi.

“Chúng không phải để bán”, cậu nói.

“Chúng không đáng giá lắm đâu.”, người Anh trả lời. “Chúng chỉ làm từ tinh thể đá và có hàng triệu tinh thể đã trên thế giới. Nhưng những người biết về những điều này sẽ biết chúng là Urim và Thummim.

“Tôi không biết là chúng có ở phần thế giới” (cái này khó hiểu, nguyên tác:
I didn’t know that they had them in this part of the world.”)

“Chúng là món quà của một vị vua cho tôi”, cậu nói.

Người lạ không nói gì; thay vào đó, anh ta bỏ tay vào túi và lấy ra 2 hòn đá giống hòn đá của cậu.

“Anh nói là một vị vua?” Anh ta hỏi.

“Tôi cho là anh không tin rằng một vị vua có thể nói chuyện với một người như tôi, một
người chăn cừu du mục”, cậu nói, muốn kết thúc câu chuyện.

“À không. Người chăn cừu du mục là những người đầu tiên nhận ra vị vua, trong khi phần còn lại của thế giới từ chối điều đó. Vậy nên chả có gì ngạc nhiên khi các vị vua nói chuyện với những người chăn cừu.”

Và rồi anh ta tiếp tục, lo ngại rằng cậu sẽ không hiểu điều anh ta đang nói, “Nó được viết trong Kinh thánh. Cũng là cuốn sách dạy tôi về Urim và Thummim. Những hòn đá là dạng duy nhất của chiêm tinh mà Chúa trời cho phép. Các linh mục đã mang chúng trong các áo giáp bằng vàng.”

Cậu bất ngờ cảm thấy vui mừng vì đã ở trong nhà kho.

“Có thể đây là một dấu hiệu”, người Anh nói, nhấn mạnh (half-aloud).

“Ai nói với anh về các dấu hiệu vậy?” Sự hứng thú của cậu ngay lập tức tăng lên.

“Mọi thứ trong cuộc sống đều là các dấu hiệu”, người Anh nói, bây giờ đã đóng cuốn sách mà anh ta đang đọc. “Có một ngôn ngữ vũ trụ, mọi người đều hiểu nhưng đã bị quên lãng. Tôi đang tìm thứ ngôn ngữ đó, giữa các thứ khác. Đó là lý do tại sao tôi ở đây. Tôi phải tìm một người biết ngôn ngữ vũ trụ. Một nhà giả kim.”

Câu chuyện bị cắt ngang bởi chủ nhà kho.

“Hai cậu may mắn đấy.”, người Ả-rập to béo nói. “Có một đoàn lữ hành hôm nay sẽ rời đi Al-Fayoum.”

“Nhưng tôi đi Ai Cập mà.”, cậu nói.

“Al-Fayoum ở Ai Cập.”, người Ả-rập nói. “Cậu là kiểu người Ả-rập gì vậy?”

“Đó là một điềm tốt,” người Anh nói, sau khi người Ả-rập to béo đã đi ra

“Nếu tôi có thể, tôi sẽ viết một bách khoa toàn thư khổng lồ chỉ về từ ngữ may mắn và sự ngẫu nhiên. Chỉ với những từ này mà ngôn ngữ vũ trụ đã được viết nên.”

Anh ta nói với cậu không có sự ngẫu nhiên mà anh ta gặp cậu với hòn đá Urim và Thummim trên tay. Và anh ta hỏi cậu, nếu cậu cũng đang tìm nhà giả kim.

“Tôi đang tìm một kho báu,” cậu nói, và ngay lập tức thấy hối hận vì đã nói ra. Nhưng anh chàng người Anh tỏ ra chẳng quan tâm gì đến nó.

“Theo một khía cạnh nào đó, tôi cũng thế”, anh ta đáp.

“Tôi thậm chí còn không biết thuật giả kim là gì,” cậu nói, khi chủ nhà kho kêu họ ra ngoài.

(còn tiếp)

The Alchemist – Nhà giả kim (p17)

Cậu trở về phòng và gói ghém đồ đạc. Đồ đạc đựng đầy trong 3 túi. khi cậu chuẩn bị đi, cậu nhìn thấy trong góc phòng, bị đồ chăn cừu cũ của cậu. Khi cậu lấy cái áo khoác cũ ra khỏi bị, định bụng sẽ cho một người nào đó trên đường, hai hòn đá rơi ra sàn. Urim và Thummim.

Việc này khiến cậu nhớ đến vị vua già, và làm cậu giật mình vì đã lâu rồi cậu mới nhớ đến ông. Trong gần một năm, cậu đã làm việc một cách không ngơi nghỉ, chỉ nghĩ về để dành tiền để cậu có thể trở về Tây Ban Nha trong tự hào.

Không bao giờ ngừng mơ ước.” Vị vua già đã nói. “Hãy theo các dấu hiệu“.

Cậu nhặt Urim và Thummim lên, và một lần nữa cậu có cảm giác lạ lùng là ông già đang có ở đó. Cậu đã làm việc vất vả trong một năm, và giờ các dấu hiệu bảo cậu đã đến lúc lên đường.

Mình sẽ quay về làm việc mà mình đã từng làm trước đây, cậu nghĩ. Ngay cả khi lũ cừu không dạy cậu nói tiếng Ả-rập.

Nhưng bọn cừu đã dạy cậu một điều quan trọng hơn: có một thứ ngôn ngữ trên thế giới mà mọi người đều hiểu, một ngôn ngữ cậu đã sử dụng suốt thời gian cậu cố gắng cải thiện mọi thứ trong cửa hàng. Nó là ngôn ngữ của sự nhiệt thành, của việc mọi thứ được hoàn thành với tình yêu và có mục đích, như một phần của việc tìm kiếm một điều thuộc về niềm tin và mong muốn.

“Khi cậu muốn điều gì đó, cả thế giới sẽ ngầm xoay chuyển để giúp cậu đạt được điều đó.”, vị vua già đã nói như vậy.

Nhưng ông vua già không nói gì về việc bị cướp, hoặc về sa mạc vô tận, và về những người biết giấc mơ của họ là gì nhưng không bao giờ hiện thực hóa nó. Ông vua già không nói rằng Kim tự tháp thực ra chỉ là một đống đá, hoặc là ai đó có thể xây một đống đá như vậy trong sân sau nhà mình. Và ông ta cũng quên đề cập đến chuyện khi người ta có đủ tiền để mua số lượng bầy chăn lớn hơn mà người ta từng có, người ta nên mua chúng.

Cậu nhặt cái bị của mình lên và bỏ nó chung với những thứ khác. Cậu đi xuống lầu, và tìm thấy người thương gia đang đợi một cặp người nước ngoài, khi hai người khách khác bước vào cửa hàng, uống trà trong các ly pha lê. Như vậy là nhiều hoạt động hơn là buổi sáng tầm giờ này. Từ nơi cậu đứng, lần đầu tiên cậu thấy tóc của người thương gia già rất giống tóc của vị vua già. Cậu nhớ lại nụ cười của người bán kẹo vào ngày đầu tiên cậu ở Tangier, khi cậu không có gì để ăn và không có chỗ để đi, nụ cười đó cũng giống như nụ cười của ông vua già.

Gần như là ông ấy đã ở đây và để lại dấu ấn của mình, cậu nghĩ, và vậy là, chưa ai trong những người này đã gặp vị vua. Mặt khác, ông đã nói là ông luôn hiện ra để giúp những ai muốn hiện thực hóa giấc mơ của họ. Cậu đi mà không tạm biệt người thương gia pha lê. Cậu không muốn khóc trước những người khác ở đó. Cậu sẽ nhớ nơi này, và tất cả những điều tốt đẹp mà cậu đã học được. Cậu đã tự tin vào mình hơn, và cảm giác như là cậu có thể chinh phục được thế giới.

“Nhưng mình sẽ quay về những cánh đồng mà mình biết, để chăm sóc lũ cừu một lần nữa.” Cậu nói với bản thân với một sự chắc chắn, nhưng cậu không còn cảm thấy vui vẻ với quyết định của mình nữa. Cậu đã làm việc trong suốt một năm để biến giấc mơ thành hiện thực, và giấc mơ đó, từng phút một, trở nên kém quan trọng đi. Có lẽ đó không thực sự là điều mà cậu mơ ước.

Ai mà biết được… có lẽ sẽ tốt hơn nếu giống như là người thương gia pha lê: không bao giờ đến Mecca, và chỉ trải qua một cuộc sống với mong muốn thực hiện điều đó, cậu nghĩ, và lại một lần nữa cố thuyết phục bản thân. Nhưng khi cậu cầm Urim và Thummim trong tay, chúng đã truyền cho cậu một sức mạnh và ý chí của vị vua già. Bằng sự ngẫu nhiên, hoặc có thể nó là dấu hiệu, cậu nghĩ – cậu đến quầy bar mà cậu đã bước vào ngày đầu tiên ở đây. Kẻ trộm không có ở đó, và người chủ tiệm lấy cho cậu một ly trà.

Mình có thể luôn quay về thành một người chăn cừu, cậu nghĩ. Mình đã học cách chăm sóc lũ cừu, và mình vẫn chưa quên cách thực hiện.  Nhưng có lẽ mình sẽ không bao giờ có một cơ hội khác để đến chỗ Các Kim tự tháp ở Ai Cập. Ông lão mặc một bộ giáp vàng, và ông biết quá khứ của mình. Ông ấy thực sự là một vị vua, một vị vua thông thái.

(còn tiếp)

The Alchemist – Nhà giả kim (p15)

Hai tháng nữa trôi qua, và quầy trưng bày đã mang đến rất nhiều khách hàng đến cho cửa tiệm. Cậu ước tính rằng, nếu cậu làm việc thêm 6 tháng nữa, cậu có thể trở về Tây Ban Nha và mua 60 con cừu, và thậm chí là 60 con nữa. Dưới một năm, cậu sẽ nhân đôi số cừu, và cậu có thể làm kinh doanh với người Ả-rập, vì cậu bây giờ đã có thể nói ngôn ngữ lạ này. Từ buổi sáng đó ở khu chợ, cậu chưa bao giờ phải sử dụng lại Urim và Thummim, vì Ai Cập bây giờ chỉ là một khoảng cách của một giấc mơ đối với cậu, như Mecca với ông chủ cửa hàng. Dù sao chăng nữa, cậu cũng đã vui vẻ với công việc, và luôn nghĩ về ngày mà cậu dỡ hàng ở Tarifa như là một người chiến thắng.

“Cậu phải luôn biết cậu muốn cái gì,” vị vua già đã nói. Cậu biết, và đang làm để thực hiện điều đó . Có thể đó là kho báu của cậu khi đi lên vùng đất lạ này, gặp một kẻ cắp, và nhân đôi bầy cừu mà không tố xu nào cả.

Cậu tự hào về bản thân mình. Cậu đã học được vài thứ quan trọng, như là làm thế nào để mặc cả về pha lê, và về ngôn ngữ không cần lời nói… và về các dấu hiệu. Một buổi chiều cậu nhìn thấy một người đàn ông ở trên đỉnh đồi, phàn nàn rằng không thể tìm một nơi thích hợp để mua đồ uống sau một chặng leo núi như vậy. Cậu, vốn quen với nhận diện các dấu hiệu, đã nói với ông chủ: “Chúng ta hãy bán trà cho những người leo lên đồi.”

“Có rất nhiều chỗ bán trà xung quanh đây,” người thương gia trả lời.

“Nhưng chúng ta có thể bán trà trong những ly pha lê. Mọi người sẽ thưởng thức trà và sẽ muốn mua cả những ly pha lê. Cháu đã được chỉ rằng vẻ đẹp là sự quyến rũ to lớn đối với con người.”

Người thương gia không trả lời, nhưng chiều hôm đó, sau khi cầu nguyện và đóng cửa hàng, ông mời cậu ngồi với ông, chia sẻ điếu cày – hookah, một loại ống hút lạ của người Ả-rập.

“Cậu đang tìm kiếm thứ gì vậy?” người thương gia lớn tuổi hỏi.

“Cháu nói với bác rồi. Cháu cần mua lại bầy cừu của mình, và cháu cần tiền để làm điều đó.”

Ông cho thêm một ít chất đốt vào hookah, và hít một hơi sâu.

“Ta đã có cửa tiệm này được 30 năm. Ta biết loại pha lê nào tốt xấu, và mọi thứ khác liên quan đến pha lê. Ta biết kích thước của nó và tính chất từng loại. Nếu chúng ta bán trà trong ly pha lê, cửa hàng sẽ mở rộng. Và như thế, ta phải thay đổi cách sống.”

“Vậy chẳng phải đó là một điều tốt sao?”

“Ta đã quen với mọi thứ như thế này rồi. Trước khi cậu đên, ta đã nghĩ về khoảng thời gian bỏ phí của mình khi ở nguyên một chỗ, trong khi bạn bè ta thì phát triển, và ngay cả khi họ bị phá sản hay là làm tốt hơn nữa. Điều đó làm ta cảm thấy chán nản. Bây giờ, ta có thể thấy điều đó cũng không phải là thứ gì tệ lắm. Cửa tiệm đang ở đúng quy mô mà ta luôn mong muốn. Ta không muốn thay đổi thứ gì cả, vì ta không quen với việc xử lý với thay đổi. Ta quen với cách từ trước tới giờ rồi.”

Cậu không biết phải nói gì. Ông già nói tiếp “Cậu thực sự là một phúc lớn cho ta. Ngày hôm nay, ta đã hiểu một vài thứ mà trước đây ta chưa nhìn thấy: mỗi phúc lành bị bỏ qua sẽ trở thành một lời nguyền rủa. Ta không muốn bất kì điều gì khác trong đời. Nhưng cậu buộc ta phải nhìn vào sự giàu có và chân trời mà ta chưa bao giờ biết đến. Bây giờ khi ta đã nhìn thấy chúng, và bây giờ khi ta thấy khả năng của ta to lớn dường nào, ta sẽ cảm thấy bớt lo sợ hơn trước khi cậu đến. Bởi vì ta đã biết những điều ta nên thực hiện, và ta không muốn làm như vậy.”

Thật tốt là mình đã kiềm chế không gì với người thợ làm bánh, cậu nghĩ.

Họ tiếp tục hút ống thuốc cho đến khi mặt trời bắt đầu lặn. Họ nói chuyện bằng tiếng Ả-rập, và cậu rất tự hào vì mình đã có thể làm được như vậy. Đã có thời gian cậu nghĩ là lũ cừu có thể dạy cậu mọi điều cậu cần biết về thế giới, nhưng chúng chưa bao giờ dạy tiếng Ả-rập cho cậu.

Có thể còn những điều khác trên thế giới mà lũ cừu không thể dạy cho mình, cậu nghĩ khi cậu liên hệ về người thương gia già. Tất cả những gì chúng từng làm, thực sự, là tìm đồ ăn và nước uống. Và có thể đó không phải là điều chúng dạy mình mà là điều mà mình học từ chúng.

“Maktub”, người thương gia cuối cùng nói.

“Nó nghĩa là gì?”

“Cậu phải sinh ra ở vùng đất Ả-rập để hiểu được từ đó.”, ông trả lời. “Nhưng trong ngôn ngữ của cậu thì nó đại khái như ‘điều đó đã được viết như thế’ ”

Và, khi ông ta ngộp khói từ hookah, ông ta nói rằng cậu có thể bắt đầu bán trà trong các ly pha lê. Thỉnh thoảng, không có cách nào ngăn được dòng chảy.

(còn tiếp)

The Alchemist – Nhà giả kim (p.14)

Phần II

Cậu đã làm việc cho người bán đồ pha lê được gần một tháng,và cậu có thể thấy đây không hẳn là công việc làm cho cậu thấy hạnh phúc. Người bán đồ pha lê dành nguyên ngày lẩm nhẩm sau quầy hàng và dặn cậu cẩn thận với từng món đồ, đừng làm vỡ cái gì cả.

Nhưng cậu ở lại với công việc vì người bán đồ pha lê. Dù ông ta là một ông già kì cục (old gouch), đã đối xử với cậu khá tốt; cậu nhận được hoa hồng tốt cho từng món đồ mà cậu bán được, và cậu cũng đã để dành được một ít tiền. Buổi sáng hôm đó cậu đang tính toán: nếu cậu tiếp tục làm việc hàng ngày như cậu đang làm, cậu sẽ mất cả năm để có thể mua được vài con cừu.

“Tôi muốn mua vài cái kệ trưng bày đồ pha lê.” Cậu nói với người chủ cửa hàng. “ Chúng ta có thể để nó ở ngoài, và thu hút được những người đi qua ở chân đồi.

“Ta chưa bao giờ có một cái kệ nào cả.”, ông chủ cửa hàng trả lời. “Mọi người đi ngang qua và va vào nó, các đồ pha lê sẽ bị vỡ.”

“Khi tôi mang lũ cừu qua các cánh đồng, một vài con có thể sẽ chết nếu chúng tôi gặp rắn. Nhưng đó là cuộc sống của cừu và người chăn cừu.”

Ông chủ cửa hàng quay sang người khách muốn mua ba tấm kính pha lê. Ông đang kinh doanh phát đạt hơn bao giờ hết, như thể thời hoàng kim lúc con đường này là một trong những điểm thu hút nhất ở Tangier.

“Việc kinh doanh thực sự có khá lên.”, ông nói với cậu, sau khi người khách đã đi. “Ta đang làm tốt hơn trước nhiều, và cậu sớm sẽ được trở về với lũ cừu. Vậy tại sao cậu lại đòi hỏi cuộc sống nhiều hơn nữa?”

“Bởi vì chúng ta phải đáp lại các dấu hiệu (điềm báo).”, cậu nói, gần như không có chủ ý; và cậu hối tiếc với điều cậu vừa nói, vì người chủ cửa hàng chưa bao giờ gặp vị vua.

“Điều này được gọi là nguyên tắc của sự ưa thích, may mắn của kẻ mới bắt đầu. Vì cuộc sống muốn cậu đạt được số mệnh của cậu”, vị vua già đã nói.

Nhưng ông chủ bán đồ pha lê hiểu những gì cậu vừa nói. Sự có mặt của cậu trong cửa hàng là một dấu hiệu, và với thời gian trôi qua, tiền đổ về nhiều hơn, ông ta không hối hận vì đã thuê cậu. Cậu đã bắt đầu được trả nhiều hơn mức cậu xứng đáng, vì người thương gia đã nghĩ rằng việc buôn bán không tốn nhiều (not clear idea), đã cho cậu mức hoa hồng cao hơn. Ông cho rằng cậu sẽ sớm trở về với lũ cừu.

“Tại sao cậu muốn đến kim tự tháp?” ông ta hỏi, để tránh bàn luận về việc trưng bày.

“Vì tôi đã luôn được nghe về chúng.”, cậu trả lời, không nói gì về giấc mơ của cậu. Kho báu bây giờ chẳng là gì cả ngoài kí ức đau buồn, và cậu tránh không nghĩ tới nó.

“Ta không biết ai quanh đây muốn băng qua sa mạc chỉ để đến xem Kim tự tháp.” ông chủ cửa hàng nói, “Chúng chỉ là một đống đá. Cậu có thể xây một cái ở sân sau nhà cậu.”

“Ông chưa bao giờ mơ tới việc đi chu du cả”, cậu nói, quay sang chờ một vị khách mới bước vào cửa hàng.

Hai ngày sau, người thương gia nói chuyện với cậu về việc trưng bày hàng.

“Ta không thích sự thay đổi lắm.”, ông ta nói, “Cậu và ta không giống như Hassan, người thương gia giàu có. Nếu ông ta mua nhầm thứ gì, điều đó chẳng ảnh hưởng lắm đến ông ta. Nhưng hai chúng ta phải sống với sai lầm của mình.”

Điều đó khá đúng, cậu nghĩ, “thật là buồn”.

“Tại sao cậu nghĩ chúng ta nên có quầy trưng bày?”

“Tôi muốn trở về với lũ cừu sớm hơn. Chúng ta phải tận dụng khi may mắn vẫn đang mỉm cười với chúng ta, làm càng nhiều để giúp nó giống như nó đang giúp chúng ta. Đó là nguyên tắc của favorability. Hoặc là sự may mắn của kẻ bắt đầu.”

Ông chủ cửa hàng im lặng một lúc. Rồi ông ta nói, “Nhà Tiên tri (prophet) đã đưa cho chúng ta quyển kinh Koran, và bỏ đi với chỉ 5 nghĩa vụ (obligation) để thỏa mãn trong suốt cuộc đời của chúng ta. Điều quan trọng nhất là chỉ tin tưởng vào một Đấng quyền năng thực sự. Những điều khác là cầu nguyện 5 lần một ngày, nhịn ăn trong tuần Ramadan và bố thí cho kẻ nghèo khó.”

Ông ta dừng ở đó. Mắt ông đẫm lệ khi ông nhắc đến Nhà tiên tri. Ông là một người mộ đạo và ngay cả với tất cả sự mất kiễn nhẫn của mình, ông muốn sống cuộc sống theo đúng luật đạo Hồi.

“Còn nghĩa vụ thứ 5 là gì?” cậu hỏi.

“Hai ngày trước cậu nói ta có bao giờ mơ ước được đi chu du,” người thương gia trả lời. “Nghĩa vụ thứ 5 của mỗi người Hồi giáo là hành hương. Chúng ta có nghĩa vụ, ít nhất một lần trong đời, phải đến thánh địa Mecca.

Mecca còn xa hơn chỗ kim tự tháp rất nhiều. Khi ta còn trẻ, tất cả những gì ta muốn là để dành đủ tiền để mở cửa hàng này. Ta nghĩ rằng một ngày nào đó ta sẽ trở nên giàu có, và ta có thể đến Mecca. Ta bắt đầu kiếm ra được ít tiền, nhưng ta chưa bao giờ để ai khác ngoài bản thân quản lý cửa hàng, vì những đồ pha lê này rất đáng giá. Cùng lúc đó, nhiều người đến cửa hàng của ta suốt ngày, họ hướng về Mecca. Một vài người là những người hành hương giàu có, đi du lịch với đoàn hộ tống có người hầu và lạc đà, nhưng hầu hết những người hành hương đều nghèo hơn ta.

Tất cả những người đi đến đó đều rất hạnh phúc khi thực hiện chuyến đi. Họ đặt biểu tượng hành hương trên cửa nhà họ. Một trong số họ, một người là thợ sửa giày, chuyên kiếm sống bằng nghề vá các đôi ủng, nói rằng anh ta đã đi chu du gần một năm qua sa mạc, nhưng anh ta thấy mệt mỏi hơn khi phải đi qua các con phố Tangier để mua da giày.

“Chà, vậy tại sao bây giờ ông không đi đến Mecca?” câu hỏi.

“Vì chính suy nghĩ đến Mecca khiến ta sống. Điều đó giúp ta đối diện với những ngày mà mọi ngày đều giống nhau, những mảnh pha lê im lặng này trên kệ, ăn trưa và tối ở cùng một quán dở tệ. Ta sợ rằng nếu giấc mơ của ta thành hiện thực, ta sẽ không còn lý do gì để tiếp tục sống.

Cậu mơ về lũ cừu và kim tự tháp, nhưng cậu khác ta, vì cậu muốn hiện thực hóa giấc mơ của mình. Ta chỉ muốn mơ về Mecca. Ta đã tưởng tượng hàng ngàn lần băng qua sa mạc, đến Điện Hòn đá Thiêng, ta đi quanh Hòn đá 7 lần trước khi ta cho phép mình chạm vào nó. Ta cũng đã tưởng tượng những người ở xung quanh ta, và trước mặt ta, và tất cả những câu chuyện, những sự cầu nguyện mà chúng ta cùng chia sẻ. Nhưng ta sợ rằng nó sẽ trở thành một sự thất vọng, vậy nên ta thấy tốt hơn là mơ về nó.

Ngày hôm đó, người thương gia cho phép cậu xây khu trưng bày. Không phải ai cũng thấy giấc mơ của mình thành hiện thực theo cùng một cách.

(còn tiếp)

The Alchemist – Nhà giả kim (p13)

Người thương gia pha lê thức dậy và cảm thấy cùng một nỗi lo lắng ông có vào mỗi buổi sáng. Ông ta đã ở cùng một nơi trong suốt 30 năm qua: một cửa tiệm ở đỉnh một ngọn đồi nơi có vài khách hàng ghé qua. Bây giờ đã quá trễ để thay đổi bất kì thứ gì – điều duy nhất ông đã học được là mua và bán thủy tinh pha lê. Đã có thời rất nhiều người biết đến cửa tiệm của ông: các thương gia người Ả Rập, các nhà địa lý người Pháp và Anh, những chiến binh Đức những người luôn được… (well-heeled) Những ngày đó thật tuyệt vời cho việc buôn bán pha lê và ông đã nghĩ rằng ông có thể trở nên giàu có, và có những người phụ nữ đẹp bên cạnh khi ông già đi.

Nhưng, với thời gian. Tangier đã thay đổi. Thành phố Ceuta bên cạnh đã phát triển nhanh hơn Tangier, khiến việc buôn bán sụt giảm. Láng giềng dời đi, và chỉ còn lại vài cửa tiệm trên đồi. Và không ai sẽ leo lên đồi chỉ để ngó nghiêng vài cửa tiệm nhỏ.

Nhưng người bán pha lê không có sự lựa chọn. Ông đã ở đây 30 năm mua và bán những mảnh pha lê, và bây giờ đã quá trễ để làm gì khác.

Ông dành nguyên buổi sáng quan sát những người không thường xuyên đến và đi trên đường. Ông làm việc này nhiều năm và biết lịch của mọi người đi qua. Nhưng, chỉ ngay trước giờ ăn trưa, có một câu nhỏ dừng lại trước cửa tiệm. Cậu ta mặc đồ bình thường nhưng đôi mắt tinh tường của ông có thể nhận ra rằng cậu không có tiền. Tuy nhiên, người bán đồ pha lê quyết định tạm hoãn bữa trưa của mình lại chút ít cho đến khi cậu đi.

Một tấm thiếp treo trên cửa ra vào cho biết rằng có nhiều ngôn ngữ được sử dụng trong cửa hàng. Cậu nhìn thấy một người đàn ông đằng sau quầy hàng.

“Tôi có thể lau kính cửa sổ, nếu ông muốn”, cậu nói, “Nhìn chúng bây giờ, sẽ chẳng ai muốn ghé vào mua hàng.”

Người đàn ông nhìn cậu nhưng không phản ứng gì.

“Để đổi lại, ông có thể cho tôi chút gì để ăn.”

Người đàn ông vẫn không nói gì, và cậu cảm nhận rằng cậu sắp sửa phải quyết định. Trong bị của mình, cậu có cái áo khoác – cậu chắc chắn sẽ không cần dùng nó ở sa mạc. Lấy cái áo ra, cậu lau chùi tất cả các kính cửa sổ, và, trong khi cậu đang làm, có 2 người khách bước vào cửa tiệm và mua vài đồ pha lê.

Khi cậu đã lau xong, cậu hỏi người đàn ông chút gì đó để ăn. “Hãy đi ăn trưa nào”, người bán đồ pha lê nói.

Ông ta đặt biển báo lên cửa ra vào và họ ghé vào một quán gần đó. Khi họ ngồi xuống cái bàn duy nhất ở đó, người thương nhân cười.

“Cậu chẳng cần phải làm việc lau dọn”, ông ta nói, “Kinh Koran buộc ta phải cho những người đói ăn.”

“Chà, nếu vậy, tại sao ông lại để tôi làm?”, cậu hỏi.

Bởi vì mấy tấm kính đó bẩn. Và cả tôi và cậu cần phải lau dọn đầu óc khỏi những suy nghĩ tiêu cực.”

Khi họ ăn, người thương gia quay sang cậu và nói “Tôi muốn cậu làm việc cho cửa tiệm của tôi. Hai khách hàng đã đến ngày hôm nay khi cậu đang làm việc, đó là một dấu hiệu tốt.”

Mọi người nói nhiều về các dấu hiệu, anh chàng chăn cừu nghĩ, nhưng họ thực sự không biết họ đang nói gì. Đơn giản như ta nhận ra sau bao nhiêu năm ta đã nói chuyện với lũ cừu của ta mà không cần một ngôn từ nào.

“Cậu có muốn làm cho ta không?” người thương gia hỏi.

“Tôi có thể làm nốt hôm nay”, cậu trả lời. “Tôi sẽ làm việc cả đêm, cho đến bình minh, và tôi sẽ lau từng mảnh pha lê trong cửa tiệm của ông. Đổi lại, tôi cần tiền để mai có thể đến Ai Cập.”

Người thương gia cười phá lên. “Thậm chí cậu lau đồ pha lê cho ta nguyên cả năm… ngay cả khi cậu có hoa hồng cao khi bán từng cái một, cậu vẫn phải mượn tiền đến Ai Cập. Chúng cách nhau cả hàng ngàn dặm đường sa mạc từ đây đến đó.”

Khoảnh khắc im lặng đến nỗi tưởng chừng như thành phố đã đi ngủ cả. Không có tiếng động từ các khu chợ, không có tranh cãi giữa các người bán hàng, không có người leo lên các ngọn tháp hát thánh ca. Không có hy vọng, không có cuộc phiêu lưu, không có vị vua già hay số mệnh, không kho báu, không kim tự tháp. Giống như cả thế giới đã chìm trong im lặng vì tâm hồn của cậu. Cậu ngồi đó, nhìn trống rỗng qua cửa quán cà phê, ước rằng cậu đã chết, và mọi thứ sẽ kết thúc mãi mãi vào giây phút đó.

Người thương gia nhìn cậu lo lắng. Tất cả sự hân hoan ông vừa thấy sáng nay đã bất ngờ biến mất.

“Ta có thể cho cậu số tiền cậu cần để trở về đất nước của cậu, con trai.”, người thương gia pha lê nói.

Cậu không nói gì cả. Cậu đứng dậy, sửa sang quần áo, cầm lấy bị đồ.

“Tôi sẽ làm cho ông.” Cậu nói.

Và sau một khoảng lặng dài, cậu nói thêm “Tôi cần tiền để mua vài con cừu.”

The Alchemist – Nhà giả kim (p11)

Ngoài ra, do gấp gáp cho chuyến đi, cậu đã quên mất một chi tiết, chỉ một chi tiết nhưng có thể khiếp cậu sẽ phải mất thời gian lâu mới tìm ra kho báu: ở đất nước này người ta chỉ nói tiếng Ả rập.

Người chủ tiệm bar tiến tới cậu, và cậu chỉ vào loại thức uống đã được phụ vụ ở bàn bên cạnh. Hóa ra nó là một loại trà đắng. Cậu thích rượu hơn. Nhưng cậu không cần phải lo lắng đến việc đó và lúc này. Điều cậu quan tâm là kho báu của cậu, làm sao cậu có thể đi tìm nó. Vụ mua bán cừu đã cho cậu đủ tiền túi và cậu biết rằng tiền có ma thuật; bất kì ai có tiền không bao giờ thực sự đơn độc. Trước khi nhận ra, có thể chỉ trong vài ngày, cậu đã ở chỗ các kim tự tháp. Ông lão, với tấm áo giáp vàng sẽ không nói dối chỉ để đòi 6 con cừu.

Ông cụ đã nói về dấu hiệu và điềm báo, và khi cậu băng qua eo biển, cậu suy nghĩ về những dấu hiệu. Đúng thế, cậu biết về điều ông đã nói: trong thời gian cậu đi qua các cánh đồng ở Andalusia, cậu đã quen với việc học nhận biết con đường cậu nên đi bằng cách quan sát mặt đất và bầu trời. Cậu đã khám quá rằng có sự hiện diện của loài chim nhất định có nghĩ là có rắn ở gần đó, rằng một bụi cây cụ thể là dấu hiệu có nước trong khu vực đó. Bọn cừu đã dạy cậu những điều đó.

Nếu Thượng đế dẫn dắt bọn cừu tốt đến thế, người cũng sẽ dẫn dắt một con người, cậu nghĩ, và ý nghĩ đó làm cậu cảm thấy khá hơn. Trà có vẻ ít đắng đi.

“Anh là ai?” Cậu nghe một giọng hỏi cậu bằng tiếng Tây Ban Nha.

Cậu cảm thấy nhẹ nhõm. Cậu đang suy nghĩ về dấu hiệu và một người xuất hiện.

“Làm sao anh lại nói tiếng Tây Ban Nha nhỉ?” cậu hỏi. Người mới đến là một người đàn ông trẻ trong bộ quần áo phương Tây, nhưng màu da của anh chỉ ra rằng anh ta là người của thành phố này. Anh ta khoảng cùng tuổi và cùng chiều cao với cậu.

“Đa số mọi người ở đây nói tiếng Tây Ban Nha. Chúng ta chỉ cách Tây Ban Nha 2 giờ thôi.”

“Ngồi xuống đây, và để tôi mời câu cái gì nhé,” cậu nói, “và hỏi giúp tôi một ly rượu. Tôi ghét loại trà này.”

“Không có rượu trên đất nước này đâu”, người đàn ông trẻ nói, “Tôn giáo ở đây cấm.”

Cậu nói với anh ta là cậu cần tới chỗ những kim tự tháp. Cậu gần như nói với anh ta về kho báu của mình, nhưng quyết định không làm như vậy. Nếu cậu nói, có khả năng anh chàng Ả rập này sẽ muốn một phần của nó để trả công cho việc dẫn cậu đến đó. Cậu nhớ điều ông cụ nói về việc đề nghị những thứ mà mình chưa có.

“Tôi muốn cậu dẫn tôi đến đó nếu cậu có thể. Tôi có thể trả tiền cho cậu để cậu làm hướng dẫn viên cho tôi.”
“Anh có ý tưởng nào làm sao đến đó không?” người mới đến hỏi.

Cậu nhận thấy rằng ông chủ tiêm bar đứng gần đó, chú ý nghe cậu chuyện của họ. Cậu cảm thấy khó chịu với sự có mặt của ông ta, nhưng cậu đã tìm thấy người hướng dẫn và không muốn bỏ lỡ cơ hội này.

“Anh sẽ phải vượt qua toàn bộ sa mạc Sahara”, người trẻ tuổi nói, “Và để làm vậy, anh cần tiền. Tôi cần biết nếu anh có đủ tiền hay không.”

Cậu nghĩ đó là một câu hỏi kì lạ. Nhưng cậu tin vào ông cụ, người đã nói rằng khi bạn thực sự muốn điều gì đó, thế giới sẽ âm thầm giúp cho bạn.

Cậu lấy tiền trong túi ra và cho người trẻ tuổi xem. Người chủ quán cũng đến gần và nhìn. Hai người đàn ông đã trao đổi vài từ ngữ bằng tiếng Ả rập và người chủ quán tỏ ra cực kì khó chịu.

“Hãy ra khỏi đây”, người mới đến nói. “Ông ta muốn chúng ta rời khỏi đây.”

Cậu cảm thấy nhẹ nhõm. Cậu đứng dậy để trả tiền nhưng người chủ quán bắt lấy tay cậu và bắt đầu nói với cậu một tràng những từ ngữ giận dữ. Cậu khỏe và muốn chống trả, nhưng cậu đang ở nước ngoài. Người bạn mới của cậu đẩy người chủ qua một bên và kéo cậu ra ngoài với anh ta. “Ông ta muốn tiền của anh.”, anh ta nói, “Tangier không giống phần còn lại của châu Phi. Đây là cảng, và mọi khu cảng đều có kẻ cắp.”

Cậu tin vào người bạn mới. Anh ta đã giúp cậu thoát khỏi tình trạng nguy hiểm. Cậu lấy tiền ra và đếm.

“Chúng ta có thể đến chỗ kim tự tháp và ngày mai,” người kia nói, lấy tiền.” Nhưng tôi phải mua 2 con lạc đà.”
Họ đi bộ cùng nhau trên những con đường hẹp của Tangier. Mọi nơi đều có các gian quán với các mặt hàng bán. Họ đến khu trung tâm quảng trường nơi họp chợ. Có hàng nghìn người ở đó, cãi nhau, bán và mua; rau được bày bán giữa dao găm, và thảm được trưng bày một bên với thuốc lá. Nhưng cậu không bao giờ bỏ mắt ra khỏi người bạn mới. Hết tharym anh ta có tất cả tiền của cậu. Cậu nghĩ đến việc hỏi anh ta đưa lại cho mình nhưng quyết định rằng như vậy sẽ không thân thiện. Cậu không biết gì về tập quán của vùng đất lạ mà cậu đang ở.

“Ta sẽ chỉ canh chừng anh ta”, cậu tự nhủ. Cậu biết là cậu khỏe hơn bạn của mình.

Bất ngờ, giữa tất cả mọi thứ lẫn lộn, cậu thấy một thanh kiếm đẹp nhất mà cậu từng thấy. Vỏ kiếm được dập bạc, tay cầm màu đen và đính những viên đá quá. Cậu tự hứa rằng khi cậu trở lại Ai Cập, cậu sẽ mua thanh kiếm này.

“Hỏi người chủ của gian hàng này xem thanh kiếm trị giá bao nhiêu”, cậu nói với người bạn. Rồi cậu nhận ra cậu đã bị sao lãng trong giây lát vì thanh kiếm. Trái tim cậu thắt lại như thể lồng ngực của cậu nén nó lại. Cậu đã lo sợ nhìn xung quanh vì cậu biết cậu sẽ tìm thấy cái gì. Cậu tiếp tục nhìn thanh kiếm đẹp đẽ thêm một lúc, cho đến khi cậu lấy đủ dũng khí để nhìn xung quanh.

Tất cả mọi thứ xung quanh cậu là chợ, với người đến và đi, chửi bớt và mua bán, và hương thơm của các món lạ… nhưng cậu không thể tìm thấy người bạn đồng hành của mình ở nơi nào.

The Alchemist – Nhà giả kim (p8)

Cậu nhắc ông già là ông có nói gì đến kho báu bị chôn giấu.

“Lực chảy của nước làm lộ kho báu, và cũng chính các dòng chảy đó chôn vùi kho báu.” Ông già nói. “Nếu cậu muốn biết về kho báu của cậu, cậu phải đưa cho ta 1/10 số cừu cậu có.”

“Vậy 1/10 kho báu của tôi thì sao?”

Ông già có vẻ thất vọng. “Nếu cậu khởi đầu bằng hứa hẹn về một thứ mà cậu chưa có, cậu sẽ mất mong muốn làm các thứ để có được nó.”

Cậu kể cho ông già nghe là cậu đã hứa đưa 1/10 kho báu của cậu cho người phụ nữ Gypsy.

“Những người Gypsy là những người cực kì giỏi khiến mọi người phải làm vậy.” Ông già thở dài. “Dù sao chăng nữa, điều tốt là cậu đã được học rằng mọi thứ trong đời đều có giá của nó.

Đó là điều mà các Chiến binh Ánh sáng luôn cố gắng dạy.” Ông già trả cuốn sách lại cho cậu.

“Ngày mai, cùng thời gian này, mang cho ta 1/10 đàn cừu của cậu. Và ta sẽ nói cho cậu biết làm thế nào để tìm ra kho báu bị chôn vùi đó. Tạm biệt.” Và rồi ông biến mất ở góc quảng trường.

Cậu bắt đầu đọc lại cuốn sách của mình, nhưng cậu không thể tập trung được nữa. Cậu căng thẳng và bực mình, bởi vì cậu biết ông già đã đúng.

Cậu đến cửa hàng bánh và mua một ổ bánh mì, nghĩ liệu rằng cậu có nên nói cho người thợ về điều mà ông già đã nói với cậu về anh ta. Thỉnh thoảng tốt hơn là để mọi thứ như nó vốn có, cậu tự nhủ, và quyết định không nói gì cả. Nếu cậu đã nói gì đó, người thợ sẽ mất 3 ngày suy nghĩ về việc từ bỏ tất cả, ngay cả  khi  anh ta đã quen với việc để mọi thứ như vậy. Cậu có thể, chắn chắn là không muốn gây ra sự lo lắng đó cho người thợ. Vậy nên cậu đi tản bộ quanh thành phố và dừng lại trước các cánh cửa. Có một tòa nhà nhỏ ở đó, với một cửa sổ nơi mọi người mua vé đến Châu Phi. Và cậu biết là Ai Cập ở Châu Phi.

“Tôi có thể giúp gì cho cậu không?” người đàn ông đằng sau cửa sổ hỏi.

“Có lẽ để mai”, cậu nói, rồi đi mất. Nếu cậu bán chỉ một con cừu của cậu, cậu sẽ có đủ tiền để đi qua bờ bên kia của eo biển. Suy nghĩ này làm cậu sợ.

“Lại một kẻ mơ mộng nữa”, người bán vé nói với trợ lý của mình, nhìn cậu đi mất. “Anh ta không có đủ tiền để đi du lịch”.

Khi đứng ở cửa sổ quầy vé, cậu nhớ đàn cừu của mình, và quyết định cậu nên trở về làm một người chăn cừu. Trong hai năm cậu đã học mọi thứ về chăn cừu: cậu biết làm thế nào cạo lông cừu, làm thế nào chăm sóc cho những con cừu cái mang bầu, và làm thế nào bảo vệ lũ cừu khỏi chó sói. Cậu biết tất cả các cánh đồng và nơi chăn thả ở Andalusia. Và cậu biết giá cả phải chăng cho từng con trong bầy của mình.

Cậu quyết định trở về chuồng thả của bạn mình theo con đường dài nhất có thể. Khi cậu đi ngang qua lâu đài của thành phố, cậu cắt ngang con đường đi và trèo lên dốc đá dẫn đến đỉnh tường. Từ đó, cậu có thể nhìn thấy Châu Phi từ khoảng cách xa. Một ai đó từng nói với cậu rằng người Moors đã đến đó để chiếm đóng toàn bộ Tây Ban Nha.
Cậu có thể thấy hầu hết toàn bộ thành phố từ nơi cậu ngồi, bao gồm cả quảng trường nơi cậu đã nói chuyện với ông lão. Nguyền rủa lúc ta gặp ông già đó, cậu nghĩ. Cậu đã đến thị trấn này chỉ để tìm một người phụ nữ có thể lý giải giấc mơ của cậu. Cả bà ta lẫn ông già tất cả đều bị không bị ấn tượng với sự thật rằng cậu chỉ là một người chăn cừu. Họ là những cá thể đơn độc không còn tin vào mọi thứ, và không hiểu rằng những người chăn cừu đã trở nên gắn bó với đàn cừu của mình. Cậu biết mọi thứ về từng thành viên trong đàn: cậu biết con nào có khuyết tật, con nào sẽ sinh trong vòng 2 tháng nữa, và con nào lười biếng nhất. Cậu biết làm thế nào để xén lông chúng và làm thế nào để giết chúng.Nếu cậu quyết định rời bỏ chúng, chúng sẽ phải chịu đựng.
Gió bắt đầu mạnh. Cậu biết loại gió này: chúng được người ta gọi là gió Địa Trung Hải vì những người Moors đã theo chúng đến từ cuối phía Đông Địa Trung Hải.

Gió Địa Trung Hải thổi mạnh hơn. Ta ở đây, giữa bầy cừu và kho báu, cậu nghĩ. Cậu phải chọn giữa một thứ cậu đã quen thuộc và một thứ mà cậu muốn có. Ngoài ra cũng có cả cô gái con người thương gia, nhưng cô không quan trọng bằng bầy cừu của cậu, bởi vì cô không lệ thuộc vào cậu. Có lẽ cô thậm chí còn không nhớ đến cậu. Cậu khá chắc rằng không khác lắm việc ngày nào cậu xuất hiện trước mặt cô: với cô, mỗi ngày đều giống nhau, và khi mỗi ngày qua đi đều giống như những ngày sắp tới, đó là do con người quên mất cách nhận ra điều tốt đẹp xảy ra trong cuộc đời của họ vào mỗi ngày khi mặt trời mọc.

Ta đã bỏ bố, mẹ và thị trấn với lâu đài đằng sau. Họ đã quen với việc ta luôn đi xa, và ta cũng thế. Bọn cừu rồi cũng sẽ quen với việc ta không có mặt ở đó. Cậu nghĩ.

Từ nơi cậu ngồi, cậu có thể quan sát quảng trường. Mọi người tiếp tục đến và đi vào tiệm bánh. Một cặp trẻ tuổi ngồi ngay ghế mà cậu từng ngồi với ông già. Và họ hôn nhau.

“Người thợ làm bánh đó…” cậu nói với bản thân, nhưng bỏ nửa chừng suy nghĩ. Gió Địa Trung Hải vẫn đang thổi mạnh lên, và cậu cảm giác được sức gió trên mặt. Ngọn gió này đã đưa người Moors đến, đúng, nhưng nó cũng mang đến hương của sa mạc và các cô gái che mặt. Nó mang trong mình hương vị ngọt ngào và mơ ước của những người đã từng rời bỏ để tìm kiếm thứ chưa biết, và vàng, và các chuyến phiêu lưu – và những kim tự tháp. Cậu cảm thấy ghen tị sự tự do của ngọn gió, và thấy rằng cậu cũng có thể có được sự tự do như vậy. Không có gì giữ cậu lại ngoài chính bản thân cậu. Lũ cừu, cô gái con người thương gia, và vùng cỏ của Andalusia chỉ là những bước trên con đường đến định mệnh của cậu.

**

(còn tiếp)

The Alchemist – Nhà giả kim (p7)

“Ta là vua của Salem”, ông già nói.

“Tại sao một vị vua lại nói chuyện với một người chăn cừu?” Cậu nói, ngạc nhiên cực độ và xấu hổ.

“Vì rất nhiều lý do. Nhưng chúng ta hãy nói điều quan trọng nhất là cậu đã thành công tìm ra số mệnh của mình.”

Cậu không hiểu “số mệnh” của một người là gì.

“Đó là điều mà cậu luôn muốn đạt được. Mỗi người, khi họ còn trẻ, họ biết số mệnh của mình là gì.

Vào thời điểm đó trong đời, mọi thứ rõ ràng và mọi thứ đều có khả năng xảy ra. Họ không ngại mơ ước, và khao khát mọi thứ họ muốn xảy ra trong cuộc đời của họ. Nhưng khi thời gian trôi qua, một lực bí ẩn đã bắt đầu thuyết phục họ rằng họ không thể thực hiện được số mệnh của cuộc đời mình.”

Cậu không hiểu lắm những gì ông già nói. Nhưng cậu muốn biết “lực bí ẩn” đó là gì; cô gái con người thương gia chắc chắn sẽ bị ấn tượng khi cậu kể cô nghe về nó!

“Đó là lực xuất hiện mang đầy vẻ tiêu cực, nhưng thực tế giúp cậu hiện thực hóa số mệnh của mình. Nó giúp cậu chuẩn bị tinh thần và ý chí bởi vì có một sự thật vĩ đại trên hành tinh này: bất kể cậu là ai, hoặc bất kể cậu làm gì, khi cậu thực sự muốn điều gì đó, chính nó là mong mỏi xuất phát từ tinh thần của vũ trụ. Đó là sứ mạng của cậu trên trái đất này.”

“Ngay cả khi tất cả những gì ta muốn là đi chu du? Hay là cưới con gái của một người thương gia bán vải?”

“Đúng thế, hoặc ngay cả việc tìm kiếm kho báu. Tinh thần của Vũ trụ được nuôi dưỡng bởi hạnh phúc của con người. Cũng như là sự buồn bã, ganh ghét và ghen tị. Để nhận ra được số mệnh của một người chính là bổn phận duy nhất thực sự của người đó. Tất cả mọi thứ chỉ là một.

Và khi cậu muốn điều gì đó, cả vũ trụ sẽ âm mưu giúp cậu đạt được điều đó.”

Họ đều im lặng một lúc, quan sát quảng trường và những người trong thị trấn. Ông già là người nói trước.

“Tại sao cậu lại đi chăm nom một đàn cừu?”

“Bởi vì tôi thích đi chu du.”

Ông lão chỉ một người chủ tiệm bánh đứng sau cửa kính cửa hàng của mình, nằm ở một góc của quảng trường. “Khi anh ta còn là một đứa bé, người đàn ông kia cũng muốn đi chu du. Nhưng anh ta quyết định trước tiên phải mua được cửa hàng bán bánh và để dành tiền sang một bên. Khi anh ta trở thành một ông già, anh ta sẽ đi châu Phi một tháng. Anh ta chưa bao giờ nhận ra mọi người đều có khả năng, ở bất kì thời điểm nào trong đời, làm điều mà họ mơ ước.”

“Anh ta nên quyết định trở thành một người chăn cừu.” Cậu nói.

“Chà, anh ta có nghĩ về điều đó”, ông cụ trả lời. “Nhưng một chủ tiệm bánh thì quan trọng hơn là một người chăn cừu. Chủ tiệm bánh có nhà cửa, trong khi người chăn cừu thì phải ngủ ở ngoài đường. Cha mẹ muốn con cái của họ lấy một người chủ tiệm bánh hơn là một người chăn cừu.”

Cậu cảm thấy một cú đấm vào trái tim, khi cậu nghĩ về cô gái con người thương gia. Chắc chắn là thị trấn của cô có người làm chủ tiệm bánh.

Ông già nói tiếp. “Về lâu dài, chuyện mọi người nghĩ về một người chăn cừu và một chủ tiệm bánh trở nên quan trọng hơn chính số mệnh của họ.”

Ông già lật cuốn sách và chăm chú vào một trang ông mở phải. Cậu chờ, và rồi ngắt ngang ông già như cậu đã từng bị ngắt ngang. “Tại sao ông lại nói với tôi tất cả những chuyện này?”

“Bởi vì cậu đang cố gắng thực hiện số mệnh của cậu. Và cậu đang ở thời điểm mà cậu muốn từ bỏ tất cả.”

“Và đó luôn là bối cảnh cho lúc ông xuất hiện sao?”

“Không phải lúc nào cũng theo kiểu này, nhưng ta luôn xuất hiện ở dạng này hay dạng khác. Thỉnh thoảng ta xuất hiện dưới dạng một giải pháp, hoặc là một ý tưởng tốt. Ở những lần khác, vào một thời điểm quyết định, ta khiến mọi thứ xảy ra dễ dàng hơn. Ta còn làm những chuyện khác nữa, nhưng đa số thời gian mọi người không nhận ra ta đã làm những điều đó.”

Ông già liên hệ đến chuyện một tuần trước, ông đã bị buộc phải xuất hiện trước mặt một người thợ mỏ, và ông ở dưới dạng một hòn đá. Người thợ mỏ đã từ bỏ tất cả để đi đào ngọc lục bảo. Trong năm năm, anh ta làm việc ở một dòng sông cố định, và đã kiểm tra hàng trăm ngàn viên đá để tìm ra ngọc lục bảo. Người thợ mỏ đã sắp từ bỏ tất cả đến nơi, ngay vào thời điểm mà, nếu anh ta kiểm tra thêm chỉ một hòn đá nữa thôi – chỉ thêm đúng một – anh ta sẽ tìm thấy ngọc. Vì người thợ mỏ đã hy sinh mọi thứ cho số mệnh của anh ta, ông già quyết định ra tay. Ông biến mình thành một hòn đá lăn đến chân của người thợ mỏ. Người thợ, với tất cả sự giận dữ và thất vọng cho năm năm vô ích của mình, nhặt lấy hòn đá và ném nó đi. Nhưng anh ta đã ném với một lực khiến cho hòn đá làm vỡ viên đá nó rơi trúng. Và ở đó, lẫn trong viên đá bị bể, là viên ngọc lục bảo đẹp nhất trên thế giới.

“Con người học, từ rất sớm trong cuộc đời, điều gì là nguyên do họ sống”, ông già nói với một sự cay đắng, “có thể đó cũng là lý do khiến họ từ bỏ nó quá sớm. Nhưng đó là cách mà mọi thứ được sắp đặt.”

***

(còn tiếp)

The Alchemist – Nhà giả kim (p6)

 

Cậu bắt đầu đọc cuốn sách mà cậu mua. Ngay trang đầu tiên, cuốn sách mô tả một lễ mai táng. Và tên của những nhân vật liên quan rất khó phát âm. Nếu cậu viết một cuốn sách, cậu nghĩ, cậu sẽ giới thiệu từng người một, để người đọc không phải lo nhớ quá nhiều tên.

Khi cậu cuối cùng bắt đầu tập trung được vào những gì cậu đang đọc, cậu thích cuốn sách hơn, lễ chôn cất diễn ra vào một ngày tuyết rơi, và cậu đón nhận được cảm giác lạnh. Khi cậu đọc tiếp, một ông lão ngồi xuống bên cạnh cậu và cố gắng bắt chuyện.

“Họ đang làm gì vậy?” ông già hỏi, chỉ vào những người trên quảng trường.

“Làm việc”, cậu trả lời cộc lốc, cậu nhìn như thể cậu muốn tập trung vào việc đọc sách.

Thực ra, cậu đang nghĩ về việc cạo lông cừu trước mặt con gái người thương gia, để cô có thể thấy cậu là người có khả năng làm được những việc khó khăn. Cậu đã tưởng tượng cảnh đó rất nhiều lần; mỗi lần, cô gái trở nên hứng thú khi cậu giảng giải rằng phải cạo lông cừu từ đằng sau ra trước. Cậu cũng cố gắng nhớ những cậu chuyện hay liên quan khi cậu cạo lông cừu. Đa số truyện cậu đọc từ sách, nhưng cậu giả bộ kể chúng như là những kinh nghiệm thật của mình. Cô gái sẽ không bao giờ biết được sự khác nhau đó, vì cô không biết đọc.

Trong lúc đó, ông lão kiên trì nỗ lực gợi chuyện. Ông nói ông mệt và khát, và hỏi ông có thể hớp một ngụm rượu của cậu được không. Cậu đưa bình rượu và hy vọng ông ta sẽ để cậu yên.

Nhưng ông lão muốn nói chuyện, và ông hỏi cậu đang đọc cuốn sách gì. Cậu đã rất nóng để tỏ ra thô lỗ, và di chuyển sang một cái ghế khác, nhưng cha cậu đã dạy phải tôn trọng người lớn tuổi. Vậy là cậu đưa cuốn sách cho ông già – vì 2 lý do: thứ nhất, cậu, bản thân cậu, không chắc chắn về cách phát âm tựa sách; và thứ hai, nếu ông già không biết đọc, ông ta có thể tự cảm thấy xấu hổ và tự quyết định đổi chỗ ngồi.

“Hmm,” ông lão nói, nhìn vào tất cả các mặt của cuốn sách, như thể chúng là vật gì lạ lẫm. “Đây là một cuốn sách khá quan trọng, nhưng nó thực sự gây khó chịu.”

Cậu bị sốc. Ông cụ biết đọc, và đã đọc cuốn sách. Và nếu cuốn sách gây khó chịu, như ông cụ nói, cậu vẫn có thời gian để đổi cuốn khác.

“Nó là cuốn sách nói y như hầu hết các cuốn sách khác trên thế giới,” ông già nói tiếp, “nó mô tả sự bất lực của mọi người trong việc chọn lựa số phận riêng của họ. Và nó kết thúc là mọi người tin vào lời dối trá vĩ đại nhất trên thế giới.

“Cái gì là lời dối trá vĩ đại nhất trên thế giới?” cậu hỏi, hoàn toàn ngạc nhiên.

“Nó đây: Ở một thời điểm nào đó trong cuộc đời, chúng ta mất kiểm soát về những gì xảy ra với chúng ta, và cuộc sống của chúng ta hoàn toàn bị điều khiển bởi số mệnh. Đó là lời nói dối vĩ đại nhất trên thế giới.”

“Điều đó chưa bao giờ xảy ra với tôi.” cậu nói, “họ muốn tôi trở thành một mục sư, nhưng tôi quyết định mình sẽ trở thành một người chăn cừu.”

“Thế tốt hơn nhiều”. Ông già nói. “vì cậu thực sự muốn đi chu du”.

“Ông ta biết mình nghĩ gì.” cậu tự nhủ. Ông lão, trong lúc đó, lật nhanh cuốn sách, mà không có vẻ gì là muốn trả lại nó cả. Cậu để ý thấy quần áo của ông già khá lạ. Ông ta nhìn giống như một người Ả rập, điều không phải là bất thường ở những vùng như thế này. Châu Phi chỉ cách Tarifa vài giờ; với một người chỉ cần đi thuyền băng qua eo biển hẹp. Người Ả rập thường xuất hiện trong thành phố này, mua sắm và tụng những bản thánh thi lạ của họ rất nhiều lần trong ngày.

“Ông đến từ đâu?” cậu hỏi.

“Từ rất nhiều nơi”.

“Không ai có thể đến từ rất nhiều nơi,” cậu nói. “Tôi là một người chăn cừu, và tôi đã từng ở rất nhiều nơi, nhưng tôi đến từ một nơi – từ một thành phố gần lâu đài cổ. Đó là nơi tôi sinh ra.”

“À, nếu vậy, chúng ta có thể nói là ta sinh ra ở Salem”.

Cậu không biết Salem ở đâu, nhưng cậu không muốn hỏi, sợ rằng câu có thể bị lờ đi. Cậu nhìn mọi người ở quảng trường một lúc; họ đến và đi, và tất cả họ nhìn có vẻ vội vã.

“Vây, Salem như thế nào?” cậu hỏi, cố gắng lấy một vài hình dung.

“Như nó đã luôn như thế.”

Chẳng có manh mối nào cả. Nhưng cậu biết là Salem không ở Andalusia. Nếu nó ở đó, cậu đã phải nghe về nó.

“Và ông làm gì ở Salem?” cậu cố nài.

“Ta làm gì ở Salem?”, ông cụ cười. “Chà, ta là vua của Salem!”

Mọi người nói những điều kì lạ, cậu nghĩ. Thỉnh thoảng ở với lũ cừu tốt hơn, chúng không nói gì cả. Và tốt hơn là ngồi một mình với một cuốn sách. Chúng sẽ kể về những câu chuyện tuyệt vời khi ta muốn nghe. Nhưng khi chúng ta nói chuyện với mọi người, họ nói những điều kì lạ khiến bạn không biết làm sao tiếp tục câu chuyện.

“Ta tên là Melchizedek”, ông cụ nói. “Cậu có bao nhiêu cừu?”

“Vừa đủ.” cậu trả lời. Cậu nhận thấy là ông già muốn biết thêm về cuộc sống của cậu.

“Chà, nếu thế, chúng ta có vấn đề rồi. Ta không thể giúp cậu nếu cậu cảm thấy là cậu đã có đủ số cừu.”

Cậu cảm giác bứt rứt. Cậu không hỏi xin giúp đỡ. Chính là ông già đã hỏi xin ít rượu của cậu, và bắt chuyện trước.

“Trả lại tôi cuốn sách”, cậu nói. “Tôi phải đi gom lũ cừu và bắt đầu đi”.

“Đưa ta 1 phần 10 số cừu của cậu.”, ông già nói, “và ta sẽ nói cho cậu biết làm thế nào để tìm kho báu bị giấu”.

Cậu nhớ lại giấc mơ, và bất ngờ mọi thứ rõ ràng với cậu. Bà già không đòi cậu trả cái gì, nhưng ông già này, có thể là chồng của bà kia, đang tìm cách moi nhiều tiền hơn để lấy trao đổi thông tin về một thứ có thể không tồn tại. Ông già cũng có thể là một người Gypsy.

Nhưng trước khi cậu có thể nói gì, ông lão rướn người, lấy một cây gậy, và bắt đầu viết lên cát trên quảng trường. Một cái gì đó sáng lóe từ vai ông lão với một cường độ manh đến nỗi trong giây lát cậu như bị mù. Với một chuyển động quá nhanh so với tuổi tác, ông già lấy áo khoác che lại. Khi cậu nhìn lại được bình thường, cậu có thể đọc được chữ ông cụ viết trên cát.

Ở đó, trên cát của một quảng trường của thành phố nhỏ, cậu đọc thấy tên của bố mẹ cậu, và tên của chủng viện cậu đã học. Cậu đọc thấy tên của con gái người thương gia- thậm chí cậu chưa biết đến, và cậu đọc được những cái mà cậu chưa từng nói với ai.

**

(Còn tiếp)

The Alchemist – Nhà giả kim (p5)

“Tôi mơ 2 lần cùng một giấc mơ”, cậu nói. “Tôi mơ khi tôi đang ở trên cánh đồng với đàn cừu của mình, một đứa trẻ xuất hiện và bắt đầu chơi với đàn cừu. Tôi không thích mọi người làm vậy, vì cừu sợ người lạ. Nhưng lũ trẻ thường có vẻ như chơi được với lũ cừu mà không làm bọn chúng sợ. Tôi không hiểu tại sao. Tôi không biết làm thế nào bọn cừu biết được tuổi tác của con người.”

“Nói cho ta nghe thêm về giấc mơ của cậu.” người phụ nữ nói. “Ta phải quay trở lại với việc bếp núc, và, vì cậu không có nhiều tiền, ta không thể cho cậu nhiều thời gian được.”

“Đứa trẻ đến chơi với bầy cừu của tôi một lúc,” cậu nói, với một chút bực dọc. “Và bất ngờ, đứa trẻ cầm cả hai tay tôi và đưa tôi đến kim tự tháp Ai Cập.”

Cậu dừng lại một chút để xem người phụ nữ có biết kim tự tháp Ai Cập là gì không. Nhưng bà ta không nói gì cả.

“Và rồi, ở chỗ kim tự tháp Ai Cập, cậu nói năm từ cuối một cách chậm rãi, để người phụ nữ có thể hiểu được, – “đứa trẻ nói với tôi, nếu anh đến đây, anh sẽ thấy một kho báu bị cất giấu. Và ngay khi cô bé sắp chỉ cho tôi địa điểm chính xác, tôi tỉnh giấc. Cả hai lần.”

Người phụ nữ im lặng một lúc. Và rồi bà lại cầm tay cậu và nghiên cứu chúng cẩn thận.

“Ta sẽ không đòi cậu trả cái gì bây giờ,” bà ta nói. “Nhưng ta muốn một phần mười kho báu đó, nếu cậu có thể tìm thấy nó.”

Cậu cười vì sung sướng. Cậu đang có khả năng tiết kiệm được ít tiền cậu có chỉ vì giấc mơ về một kho báu bị cất giấu!

“Vậy, hãy giải mã giấc mơ”, cậu đáp.

“Đầu tiên, thề với ta.  Thề rằng cậu sẽ đưa ta một phần mười kho báu của cậu để đổi lấy cái mà ta sắp nói với cậu.”

Người chăn cừu thề rằng cậu sẽ làm như vậy. Người phụ nữ già yêu cầu cậu thề lại lần nữa trước bức tranh Thánh Tâm Chúa.

“Đây là giấc mơ trong ngôn ngữ của thế giới.” Bà ta nói. “Ta có thể lý giải nó, nhưng việc giải mã rất khó khăn. Đó là lý do ta cảm thấy ta xứng đáng với một phần của cái mà cậu tìm thấy.

“Và đây là lý giải của ta: Cậu phải đi đến kim tự tháp Ai Cập. Ta chưa hề nghe về chúng, nhưng nếu một đứa trẻ chỉ cho cậu chỗ đó, chúng phải tồn tại.  Tại đó cậu sẽ tìm thấy kho báu khiến cậu trở nên giàu có.”

Cậu ngạc nhiên, và rồi khó chịu. Cậu không cần tìm kiếm người phụ nữ vì điều này! Nhưng rồi cậu nhớ là cậu sẽ không phải trả gì cả.

“Tôi không cần phải tốn thời gian chỉ vì thế này.” cậu nói.

“Ta đã bảo cậu rằng giấc mơ của cậu là một giấc mơ khó (lý giải – vitbeou). Nó là những điều đơn giản trong cuộc sống chính là những điều phi thường nhất; chỉ có những người thông thái mới có khả năng hiểu được chúng. Và vì ta không thông thái, ta phải học các nghệ thuật khác, như là đọc chỉ tay.”

“Chà, vậy thì tôi đến Ai Cập bằng cách nào đây?”

“Ta chỉ lý giải các giấc mơ. Ta không biết làm sao biến chúng thành hiện thưc. Đó là lý do ta phải sống dựa vào những gì mà các con gái ta chu cấp cho ta.

“Và nếu tôi không bao giờ đến Ai Cập?”

“Thì ta không được trả tiền. Đó không phải là lần đầu tiên.”

Và người phụ nữ bảo cậu đi, nói rằng bà ta đã mất quá nhiều thời gian cho cậu.

Vậy là cậu thất vọng: cậu quyết định rằng cậu sẽ không bao giờ tin vào các giấc mơ nữa. Cậu nhớ đến rất nhiều thứ cậu phải để tâm đến: cậu phải đi vào chợ để mua cái gì ăn, cậu trao đổi sách lấy một cuốn dày hơn, và cậu tìm thấy một cái ghế bên một quảng trường nơi cậu có thể thử loại rượu mới cậu vừa mua. Ngày nóng bức, và rượu sảng khoái. Lũ cừu ở cổng thành phố, trong một cái chuồng của một người bạn. Cậu biết nhiều người ở thành phố này. Đó là điều khiến chu du kêu gọi cậu – cậu luôn kết bạn mới, và cậu không cần phải mất tất cả thời gian của cậu cho họ. Khi một ai đó gặp cùng một người mỗi ngày, như là điều xảy ra với cậu trong chủng viện, họ cuối cùng sẽ trở thành một phần cuộc sống của người đó. Và rồi họ muốn người đó thay đổi. Nếu người đó vẫn không trở thành người mà những người khác muốn họ trở thành, đám người kia sẽ trở nên giận dữ. Mỗi người dường như có một ý tưởng rõ ràng về việc những người khác nên sống như thế nào, nhưng không có gì về chính cuộc sống của bản thân.

Cậu quyết định chờ đến khi mặt trời lặn xuống thêm một chút trên bầu trời, trước khi theo đàn về lại cánh đồng. Ba ngày nữa kể từ giờ, cậu sẽ ở bên con gái của người thương gia.

**

(Còn tiếp)