(Mình sẽ giữ cả tiếng Anh và Việt để mọi người cùng đối chiếu với mình. Nhờ các bạn góp ý giúp, đặc biệt là đoạn chữ màu xanh lá).
Tham lam có thể hiểu được trong hoàn cảnh thiếu thốn. Hệ tư tưởng thống trị chúng ta giả định rằng: nó được xây dựng trong Câu chuyện về Cái tôi của chúng ta. Cái tôi riêng biệt trong một vũ trụ bị chi phối bởi các thế lực thù địch hoặc lãnh đạm luôn ở bên bờ tuyệt chủng, và chỉ an toàn đến mức có thể kiểm soát các lực lượng này. Đúc thành một vũ trụ khách quan bên ngoài chính chúng ta, chúng ta phải cạnh tranh với nhau vì nguồn lực hạn chế.
Dựa vào câu chuyện Cái Tôi riêng biệt, lòng tham đã từ đó được viết vào tiên đề cơ bản cả trong sinh học và kinh tế học. Trong sinh học, gen tìm cách tối đa hóa lợi ích sinh sản; trong kinh tế, đó là nhân tố đang tìm cách tối đa hóa lợi ích tài chính. Nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu giả định về sự khan hiếm là sai – (nếu nó chỉ là) một phản chiếu về ý thức hệ của chúng ta, và không phải là thực tế cuối cùng? Nếu vậy, lòng tham không ở trong (bộ gen) sinh học của chúng ta mà chỉ đơn thuần là một triệu chứng của nhận thức về sự khan hiếm.
Based on the story of the separate self, both biology and economics have therefore written greed into their basic axioms. In biology it is the gene seeking to maximize reproductive self-interest; in economics it is the rational actor seeking to maximize financial self-interest. But what if the assumption of scarcity is false—a projection of our ideology, and not the ultimate reality? If so, then greed is not written into our biology but is a mere symptom of the perception of scarcity.
Một chỉ dấu rằng lòng tham phản ánh nhận thức hơn là thực tế của sự khan hiếm là những người giàu thường có vẻ ít rộng lượng hơn là người nghèo. Theo kinh nghiệm của tôi, những người nghèo thường cho mượn hay cho nhau những khoản nhỏ mà, tính theo tỉ lệ, sẽ tương đương một nửa giá trị của một người giàu. Nghiên cứu mở rộng đã khẳng định nhận định này. Một khảo sát lớn năm 2002 do Tổ chức Độc lập (Independent Sector), một tổ chức nghiên cứu phi lợi nhuận, đã cho thấy người Mỹ kiếm ít hơn 25.000 đô là cho 4,2% thu nhập cho từ thiện, đối với 2,7% đối với người kiếm hơn 100.000 đô la. Gần đây hơn, Paul Piff, một nhà tâm lý học xã hội tại trường ĐH California-Berkeley, chỉ ra “những người có thu nhập ít hơn thường rộng lượng, từ thiện, tin tưởng và giúp đỡ người khác hơn là những người giàu có hơn”14 Piff đã phát hiện khi các chủ đề nghiên cứu cho tiền để một người chia ấn danh giữa họ và đối tác (người sẽ không bao giờ biết người kia là ai), sự hào phóng của họ sẽ tương quan nghịch với tình trạng kinh tế xã hội của họ.15
An indication that greed reflects the perception rather than the reality of scarcity is that rich people tend to be less generous than poor people. In my experience, poor people quite often lend or give each other small sums that, proportionally speaking, would be the equivalent of half a rich person’s net worth. Extensive research backs up this observation. A large 2002 survey by Independent Sector, a nonprofit research organization, found that Americans making less than $25,000 gave 4.2 percent of their income to charity, as opposed to 2.7 percent for people making over $100,000. More recently, Paul Piff, a social psychologist at University of California–Berkeley, found that “lower-income people were more generous, charitable, trusting and helpful to others than were those with more wealth.”14 Piff found that when research subjects were given money to anonymously distribute between themselves and a partner (who would never know their identity), their generosity correlated inversely to their socioeconomic status.15
Khi có thể kết luận từ nghiên cứu này rằng người tham lam sẽ trở nên giàu có, một diễn giải tương đồng là giàu có sẽ khiến con người tham lam. Tại sao lại thế? Trong hoàn cảnh giàu có, tham lam là ngớ ngẩn, chỉ có trong hoàn cảnh thiếu thốn thì nó mới hợp lý. Người giàu nhận thức về sự khan hiếm ở nơi không có (sự khan hiếm). Họ cũng thường lo lắng hơn người khác về vấn đề tiền bạc. Có thể là do bản thân tiền đã gây ra nhận thức về sự khan hiếm? Có thể nào là tiền bạc, gần như đồng nghĩa với sự an toàn, mỉa mai thay, đã mang đến điều ngược lại? Câu trả lời cho cả hai câu hỏi này là đúng vậy. Ở cấp độ cá nhân, người giàu có nhiều hơn để “đầu tư” tiền của họ và ít khả năng cho đi hơn. (Cho đi dễ dàng phản ánh thái độ của sự giàu có). Ở cấp độ hệ thống, như chúng ta sẽ thấy, sự khan hiếm cũng được xây dựng thành tiền, một kết quả trực tiếp của cách nó được sinh ra và lưu thông.
While it is tempting to conclude from this that greedy people become wealthy, an equally plausible interpretation is that wealth makes people greedy. Why would this be? In a context of abundance greed is silly; only in a context of scarcity is it rational. The wealthy perceive scarcity where there is none. They also worry more than anybody else about money. Could it be that money itself causes the perception of scarcity? Could it be that money, nearly synonymous with security, ironically brings the opposite? The answer to both these questions is yes. On the individual level, rich people have a lot more “invested” in their money and are less able to let go of it. (To let go easily reflects an attitude of abundance.) On the systemic level, as we shall see, scarcity is also built in to money, a direct result of the way it is created and circulated.
Việc coi khan hiếm là một trong hai tiền đề trung tâm của nền kinh tế (cái thứ hai là việc mọi người, một cách tự nhiên, tìm cách tối đa hóa lợi ích hợp lý của mình). Cả hai đều sai, hoặc chính xác hơn, chúng thực sự chỉ đúng trong một cõi hẹp, một cõi mà chúng ta là con ếch ở đáy giếng, nhầm lẫn về toàn bộ thực tại. Và thường là thế, những gì chúng ta coi là sự thật khách quan thực ra là một phản chiếu về tình trạng của chính chúng ta lên thế giới “khách quan”. Quá đắm chìm trong sự khan hiếm là chúng ta, điều mà chúng ta coi đó là bản chất của thực tế. Nhưng trên thực tế, chúng ta sống trong một thế giới phong phú. Sự khan hiếm ở khắp nơi mà chúng ta trải nghiệm là một vật nhân tạo: của hệ thống tiền bạc, về chính trị và nhận thức của chúng ta.
The assumption of scarcity is one of the two central axioms of economics. (The second is that people naturally seek to maximize their rational self-interest.) Both are false; or, more precisely, they are true only within a narrow realm, a realm that we, the frog at the bottom of the well, mistake for the whole of reality. As is so often the case, what we take to be objective truth is actually a projection of our own condition onto the “objective” world. So immersed in scarcity are we that we take it to be the nature of reality. But in fact, we live in a world of abundance. The omnipresent scarcity we experience is an artifact: of our money system, of our politics, and of our perceptions.
Như chúng ta sẽ thấy, hệ thống tiền bạc, hệ thống sở hữu và hệ thống kinh tế chung của chúng ta phản ánh cùng cảm nhận cơ bản về cái tôi, được xây đắp lên từ nhận thức của sự khan hiếm. Đây là “cái tôi rời rạc và tách biệt”, cái tôi Tâm trí (Cartesian self): một bòng bong tâm lý bị vùi dập trong một vũ trụ lãnh đạm, tìm cách sở hữu, kiểm soát, kiêu ngạo càng nhiều tài sản càng tốt, nhưng bị tố cáo trước thất bại do điểm giới hạn cuối cùng từ sự giàu có của bản thể kết nối với kinh nghiệm không bao giờ đủ đầy. Sự khẳng định rằng chúng ta sống trong một thế giới phong phú đôi khi gây ra một phản ứng cảm xúc, gần với sự thù địch, với những độc giả tin rằng con người cùng chung sống hài hòa với phần còn lại của cuộc sống là không thể nếu không giảm một lượng lớn dân số. Họ trích dẫn “Đỉnh dầu” và sự cạn kiệt tài nguyên, sự nóng lên toàn cầu, sự cạn kiệt của đất nông nghiệp và dấu chân sinh thái của chúng ta là bằng chứng cho thấy trái đất không thể hỗ trợ nền văn minh công nghiệp ở mức độ dân số hiện nay.
As we shall see, our money system, system of ownership, and general economic system reflect the same fundamental sense of self that has, built into it, the perception of scarcity. It is the “discrete and separate self,” the Cartesian self: a bubble of psychology marooned in an indifferent universe, seeking to own, to control, to arrogate as much wealth to itself as possible, but foredoomed by its very cutoff from the richness of connected beingness to the experience of never having enough. The assertion that we live in a world of abundance sometimes provokes an emotional reaction, bordering on hostility, in those of my readers who believe that harmonious human coexistence with the rest of life is impossible without a massive reduction in population. They cite Peak Oil and resource depletion, global warming, the exhaustion of our farmland, and our ecological footprint as evidence that the earth cannot long support industrial civilization at present population levels.
Cuốn sách này cung cấp phản hồi cho sự lo ngại trên như là một phần viễn cảnh của nền kinh tế linh thiêng. Quan trọng hơn, nó còn chỉ ra các câu hỏi “làm thế nào” – ví dụ: làm thế nào để chúng ta có thể đạt được điều đó từ vị trí hiện tại. Bây giờ tôi sẽ đưa ra một phần hồi đáp, một lý do để hy vọng. Đúng là hoạt động của con người ngày nay đang làm quá tải mức chịu đựng của trái đất. Nhiên liệu hóa thạch, tầng nước ngầm, lớp đất mặt, khả năng hấp thụ ô nhiễm và các hệ sinh thái duy trì khả năng tồn tại của bầu sinh quyển đều bị cạn kiệt ở mức báo động. Tất cả các đo lường đặt trên bàn quá nhỏ bé, quá trễ – chỉ là giọt nước trong xô so với những gì cần thiết. Mặt khác, một tỷ lệ khổng lồ của hoạt động này của con người là thừa thãi hoặc có hại cho hạnh phúc của con người.
This book offers a response to this concern as part of a vision of a sacred economy. More importantly, it addresses the “how” questions as well—for example, how we will get to there from here. For now I will offer a partial response, a reason for hope. It is true that human activity is vastly overburdening the earth today. Fossil fuels, aquifers, topsoil, the capacity to absorb pollution, and the ecosystems that maintain the viability of the biosphere are all being depleted at an alarming rate. All the measures on the table are far too little, far too late—a drop in the bucket compared to what is needed. On the other hand, an enormous proportion of this human activity is either superfluous or deleterious to human happiness.
Trước tiên hãy xem xét ngành công nghiệp vũ khí và tài nguyên tiêu thụ trong chiến tranh: khoảng 2 nghìn tỷ đô la mỗi năm, một cơ sở khoa học rộng lớn và năng lượng sống của hàng triệu người trẻ, tất cả để phục vụ không cần ngoại trừ một thứ chúng ta tự tạo ra. Xem xét nền công nghiệp nhà đất (không phải bất động sản – ND) tại đây trên đất Mỹ, với lượng khổng lồ những căn nhà McMansions trong 2 thập kỷ qua một lần nữa không thực sự phục vụ cho nhu cầu của con người. Tại một số quốc gia, một tòa nhà với kích thước đó có thể chứa được 50 người. Như thực tế, các căn phòng rộng lớn không được sử dụng, làm con người cảm thấy không thoải mái với mức độ rộng lớn quá mức cho con người và đành tìm kiếm sự thoải mái trong góc nhỏ và chỗ ăn uống ấm cúng. Các vật liệu, năng lượng và việc bảo trì các quái vật như vậy thật lãng phí tài nguyên. Có lẽ còn lãng phí hơn nữa là cách bố trí vùng ngoại ô, điều làm cho giao thông công cộng khó khăn và khiến lượng lái xe không phù hợp.
Consider first the armaments industry and the resources consumed in war: some $2 trillion dollars a year, a vast scientific establishment, and the life energy of millions of young people, all to serve no need except one we create ourselves. Consider the housing industry here in the United States, with the enormous McMansions of the last two decades that again serve no real human need. In some countries a building that size would house fifty people. As it is, the cavernous living rooms go unused, for people feel uncomfortable in their inhuman scale and seek out the comfort of the small den and the breakfast nook. The materials, energy, and maintenance of such monstrosities are a waste of resources. Perhaps even more wasteful is the layout of suburbia, which makes public transportation impossible and necessitates inordinate amounts of driving.
Xem xét ngành công nghiệp thực phẩm, lượng bỏ phí rất lớn ở bất kỳ cấp độ nào. Theo một nghiên cứu của chính phủ (Hoa Kỳ – ND), thất thoát từ trang trại-đến-bán lẻ vào khoảng 4 phần trăm, bán lẻ-đến-người tiêu dùng thất thoát 12 phần trăm, và thất thoát tại nơi người tiêu dùng là 29 phần trăm.16 Hơn thế nữa, lượng lớn đất nông nghiệp được dành cho sản xuất nhiên liệu sinh học, và nông nghiệp cơ giới hóa giới hạn công sức lao động thâm canh và các kỹ thuật sản xuất thâm canh khác có thể làm tăng năng suất rất lớn.17
Consider the food industry, which exhibits massive waste at every level. According to a government study, farm-to-retail losses are about 4 percent, retail-to-consumer losses 12 percent, and consumer-level losses 29 percent. 16 Moreover, vast tracts of farmland are devoted to biofuel production, and mechanized agriculture precludes labor-intensive intercropping and other intensive production techniques that could vastly increase productivity.17
—
14 Warner, “The Charitable-Giving Divide.”
15 Piff et al., “Having Less, Giving More.”
16 Buzby et al., “Supermarket Loss Estimates.”
17 Bạn có thể hiểu thêm về tiềm năng nông nghiệp chưa được khai thác bằng cách đọc cuốn sách hấp dẫn (xuất bản) năm 1911 của F. H. King, cuốn sách” Nông dân của bốn mươi thế kỷ”; hoặc, “Nông nghiệp Dài lâu ở Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản”, chúng giải thích làm thế nào các khu vực này duy trì dân số khổng lồ trong nhiều thiên niên kỷ trên một lượng đất nhỏ, không có cơ giới hóa, thuốc trừ sâu hoặc phân bón hóa học. Thay vào đó, họ dựa vào luân canh cây trồng, trồng xen và các mối quan hệ sinh thái giữa các cây trồng, động vật và con người. Họ không lãng phí gì, kể cả phân người. Nông nghiệp của họ cực kỳ tốn nhiều công sức, mặc dù, theo King, nó thường được tiến hành với tốc độ nhàn nhã. Năm 1907, năm mươi triệu người Nhật Bản gần như tự túc về thực phẩm; đất của Trung Quốc củng cố (điều này), ở một số vùng, các nhóm gồm bốn mươi hoặc năm mươi người trong một trang trại rộng ba mẫu; vào năm 1790, dân số Trung Quốc đã tương đương với dân số Hoa Kỳ ngày nay!
You can get some idea of the untapped potential of agriculture by reading F. H. King’s fascinating 1911 book, Farmers of Forty Centuries; Or, Permanent Agriculture in China, Korea, and Japan, which explains how these regions sustained enormous populations for millennia on tiny amounts of land, without mechanization, pesticides, or chemical fertilizers. Instead, they relied on sophisticated crop rotation, interplanting, and ecological relationships among farm plants, animals, and people. They wasted nothing, including human manure. Their farming was extremely labor-intensive, although, according to King, it was usually conducted at a leisurely pace. In 1907 Japan’s fifty million people were nearly self-sufficient in food; China’s land supported, in some regions, clans of forty or fifty people on a three-acre farm; in the year 1790 China’s population was about the same as that of the United States today!