Sacred Economics (12)

Chương 2: Ảo ảnh của sự khan hiếm

Tiền thưởng không suy giảm, đất đai nước Anh nở rộ và phát triển; vẫy chào mùa gặt vàng; dày đặc các xưởng, dụng cụ công nghiệp, với mười lăm triệu công nhân, được hiểu là những người khỏe nhất, xảo quyệt nhất và sẵn sàng nhất mà Trái đất chúng ta từng có; những người đàn ông này đang ở đây; họ đã làm việc, họ đã nhận ra hoa trái là ở đây, dồi dào, háo hức trên mỗi bàn tay của chúng ta: và coi chừng, một số kẻ uy quyền ác ý từ Miền Quyến rũ (as of Enchantment) đã tiến ra, nói rằng, “Đừng có mà đụng vào nó, những kẻ làm công, những kẻ chủ công, những kẻ lười biếng bậc thầy (master-idlers); trong các người không ai có thể chạm vào nó, trong các người không ai xứng đáng hơn ai với nó; đây là trái cây đã được bỏ bùa mê!

– Thomas Carlyle, Quá khứ và Hiện tại

Người ta nói rằng tiền, hoặc ít nhất là tình yêu với nó, là gốc rễ của mọi tội lỗi. Nhưng tại sao lại như vậy? Rốt cuộc, mục đích của tiền, cơ bản nhất, chỉ đơn giản là để tạo điều kiện trao đổi với nhau, nói cách khác là kết nối những món quà của con người với nhu cầu của con người. Sức mạnh nào, sự đồi trụy quái dị nào đã biến tiền thành điều ngược lại: một tác nhân của sự khan hiếm?
Vì thực sự chúng ta đang sống trong một thế giới về cơ bản là dồi dào, một thế giới nơi mà một lượng lớn thực phẩm, năng lượng và vật liệu bị lãng phí. Một nửa thế giới chết đói trong khi phần lãng phí của nửa còn lại đủ để nuôi nửa đầu. Ở thế giới thứ ba và các khu ổ chuột của chúng ta, mọi người thiếu thức ăn, chỗ ở và các nhu yếu phẩm cơ bản khác và không đủ khả năng để mua chúng. Trong khi đó, chúng ta đổ tài nguyên khổng lồ vào các cuộc chiến tranh, rác nhựa và vô số các sản phẩm khác không phục vụ hạnh phúc của con người. Rõ ràng, nghèo không phải do thiếu năng lực sản xuất. Cũng không phải do thiếu sự sẵn lòng giúp đỡ: nhiều người rất thích nuôi người nghèo, phục hồi thiên nhiên và làm những việc có ý nghĩa khác nhưng không thể vì không có tiền trong đó. Tiền hoàn toàn không kết nối quà tặng và nhu cầu. Tại sao?
Trong nhiều năm, xuôi theo ý kiến ​​thông thường, tôi nghĩ câu trả lời là tham lam. Tại sao các nhà máy sản xuất mồ hôi đẩy tiền lương xuống mức tối thiểu? Tham lam. Tại sao mọi người mua những chiếc SUV (xe thể thao tiện ích) ngốn hàng đống xăng? Tham lam. Tại sao các công ty dược phẩm ngăn chặn nghiên cứu và bán thuốc mà họ biết là nguy hiểm? Tham lam. Tại sao các nhà buôn cá nhiệt đới cho nổ rạn san hô? Tại sao các nhà máy bơm chất thải độc hại ra sông? Tại sao các công ty lẳng lặng cướp tiền lương hưu của nhân viên? Tham lam, tham lam, tham lam.
Cuối cùng tôi trở nên khó chịu với câu trả lời đó. Vì một điều, nó đóng vai trò trong cùng một hệ tư tưởng của sự tách biệt nằm ở gốc rễ của nền văn minh của chúng ta. Đó là một hệ tư tưởng lâu đời như sự phân chia nông nghiệp của thế giới thành hai cõi riêng biệt: hoang dã và thuần hóa, con người và tự nhiên, lúa mì và cỏ dại. Nó nói rằng có hai thế lực đối lập trong thế giới này, thiện và ác và chúng ta có thể tạo ra một thế giới tốt hơn bằng cách loại bỏ cái ác. Có một cái gì đó xấu trong thế giới và một cái gì đó xấu trong chính chúng ta, một cái gì đó chúng ta phải tuyệt chủng để làm cho thế giới an toàn cho sự tốt đẹp.
Cuộc chiến chống lại cái ác thấm nhuần mọi thể chế của xã hội chúng ta. Trong nông nghiệp, nó xuất hiện như mong muốn tiêu diệt những con sói, tiêu diệt tất cả các loại cỏ dại bằng glyphosate, để tiêu diệt tất cả các loài gây hại. Trong y học, đó là cuộc chiến chống lại vi trùng, một cuộc chiến không ngừng chống lại một thế giới thù địch. Trong tôn giáo, đó là cuộc đấu tranh chống lại tội lỗi, hoặc chống lại bản ngã, hoặc chống lại sự vô tín hay nghi ngờ, hoặc chống lại sự phóng chiếu ra bên ngoài của những điều này: ma quỷ, kẻ vô đạo. Đó là tâm lý của thanh lọc và thanh trừng, cải thiện bản thân và chinh phục, vươn lên trên tự nhiên và khao khát siêu việt, hy sinh bản thân để trở nên tốt đẹp.
Trên hết, đó là tâm lý của sự kiểm soát.

Người ta nói rằng một khi đạt được chiến thắng cuối cùng trước cái ác, chúng ta sẽ bước vào thiên đường. Khi chúng ta loại bỏ tất cả những kẻ khủng bố và tạo ra rào cản mà chúng không thể xuyên thủng, chúng ta sẽ được an toàn. Khi chúng ta phát triển một loại kháng sinh và các quy định nhân tạo (? – artificial regulation) không thể cưỡng lại của các quá trình trong cơ thể, chúng ta sẽ có một sức khỏe hoàn hảo. Khi chúng ta khiến việc pham tội là bất khả và có luật pháp để quản lý mọi thứ, chúng ta sẽ có một xã hội hoàn hảo. Khi bạn chiến thắng được sự lười biếng, sự ép buộc, sự nghiện ngập của mình, bạn sẽ có một cuộc sống hoàn hảo. Cho đến khi đó, bạn sẽ phải cố gắng nhiều hơn.

Trong cùng một câu chuyện, vấn đề trong đời sống kinh tế được cho là tham lam, ở cả bên ngoài chúng ta dưới dạng những người tham lam và bên trong chính chúng ta dưới dạng xu hướng tham lam của chính bản thân mình. Chúng ta thích tưởng tượng rằng chúng ta không tham lam lắm đâu – có thể chúng ta có một chút dao động về tham lam, nhưng chúng ta kiểm soát được nó. Không như một vài người kia! Một vài người không giữ được tham lam ở mức kiếm soát được. Họ thiếu những nền tảng gì đó mà bạn và tôi có, một mức độ cơ bản đàng hoàng, mức độ cơ bản tốt. Họ, nói một từ thôi, Xấu. Nếu họ không học được cách kiềm chế ham muốn của mình để giảm sự tham lam, chúng ta sẽ phải buộc họ làm điều đó.
Rõ ràng là, mô thức của lòng tham đầy rẫy sự phán xét người khác, và cả phán xét bản thân mình nữa. Sự giận dữ chính đáng và thù hằn của chúng ta về lòng tham mở ra một nỗi sợ bí mật rằng chúng ta cũng chẳng hơn gì họ. Kẻ đạo đức giả là người nhiệt thành nhất trong cuộc đàn áp cái ác. Quy chiếu hóa kẻ thù ra bên ngoài thể hiện cảm xúc giận dữ chưa được hóa giải. Theo một cách nào đó, đây là một điều cần thiết: hậu quả của việc dồn nén chúng hoặc hướng vào bên trong là khủng khiếp. Đã có một khoảng thời gian trong cuộc đời tôi khi tôi trải qua cảm giác ghét bỏ, đi qua cuộc chiến với chính bản thân, qua cuộc vật lộn để trở nên tốt đẹp, và trải qua sự giả vờ rằng tôi tốt hơn bất kỳ ai khác. Tôi tin rằng nhân loại, nhìn chung, hầu hết cũng có khoảng thời gian như vậy. Cuối cùng, lòng tham là một con cá trích đỏ, bản thân nó là một triệu chứng và không phải là nguyên nhân của một vấn đề sâu sắc hơn. Đổ lỗi cho lòng tham và chống lại nó bằng cách tăng cường chương trình tự kiểm soát là tăng cường chiến tranh chống lại bản thân. Đó chỉ là một biểu hiện khác của cuộc chiến chống lại tự nhiên và cuộc chiến chống lại kẻ khác nằm ở nền tảng cuộc khủng hoảng hiện nay của nền văn minh.

Lòng tham có ý nghĩa trong bối cảnh khan hiếm. Hệ tư tưởng trị vì của chúng ta giả định ra nó và (nó) được xây dựng trong Câu chuyện về Cái tôi (Self). Cái tôi riêng biệt trong một vũ trụ bị bủa vây bởi các thế lực thù địch hoặc lãnh đạm luôn ở bên bờ tuyệt chủng, và chỉ an toàn khi có thể kiểm soát các lực lượng này. Vun đúc vào một vũ trụ khách quan bên ngoài chính mình, chúng ta phải cạnh tranh với nhau vì nguồn lực hạn chế.

Dựa trên câu chuyện về cái tôi riêng biệt, cả sinh học và kinh tế vì thế đã viết lòng tham vào các tiên đề cơ bản của chúng. Trong sinh học, đó là gen tìm cách tối đa hóa lợi ích sinh sản; trong kinh tế, đó là việc hợp lý khi một diễn viên đang tìm cách tối đa hóa lợi ích tài chính của mình. Nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu giả định về sự khan hiếm sai – là dự đoán của ý thức hệ mà không phải là thực tế cuối cùng? Nếu vậy, lòng tham không phải thuộc bản chất sinh học của chúng ta mà chỉ là một triệu chứng đơn thuần của nhận thức về sự khan hiếm?

(còn tiếp)

Day 9 – Sacred Economics (9)

Những đồ vật vô dụng như vỏ ốc, chuỗi hạt xinh xắn, dây chuyền, và vân vân là những (đồng) tiền sớm nhất. Trao đổi chúng với một cái gì đó có giá trị thực dụng, nói một cách ngây thơ, chỉ là một cách để tặng quà, vì trong trao đổi đó có một bên được còn bên kia mất. Người ta cố làm nó cân bằng hơn, ai cũng mất và ai cũng được một thứ gì đó, nhưng điều này không khác việc tặng quà là bao. Bởi vì những thứ được đem ra trao đổi chỉ là hình thức của sự ràng buộc, một biểu hiện của sự biết ơn lẫn nhau. (bản dịch của Norah – cảm ơn bạn). Từ quan điểm này, bản sắc của mua và bán, vay mượn và cho vay mượn, là dễ hiểu. Chúng hoàn toàn không phải là các vận hành đối lập. Tất cả các món quà luân chuyển trở lại cho người tặng trong một hình thức khác. Người mua và người bán đều bình đẳng.

Ngày nay có sự bất cân xứng trong các giao dịch thương mại, trong đó xác định người mua là người đưa tiền và nhận hàng và người bán là người nhận tiền và đưa hàng. Nhưng chúng ta cũng có thể nói rằng “người mua” là người bán tiền đang bán tiền và “người bán” là người đang mua tiền với hàng hóa. Bằng chứng ngôn ngữ học và nhân học chỉ ra rằng sự bất cân xứng này là mới, mới hơn nhiều so với tiền. Điều gì đã xảy ra với tiền, sau đó, để tạo ra sự bất cân xứng này? Tiền khác với mọi hàng hóa khác trên thế giới, và, như chúng ta sẽ thấy, chính sự khác biệt này rất quan trọng trong việc biến nó thành dung tục.

Mặt khác, bằng trực giác chúng ta nhận ra quà tặng là thiêng liêng, đó là lý do tại sao ngay cả ngày nay chúng ta vẫn làm lễ tặng quà. Quà tặng thể hiện những phẩm chất quan trọng của sự linh thiêng mà tôi đã thảo luận trong phần giới thiệu. Thứ nhất, tính độc đáo: không giống như các mặt hàng được tiêu chuẩn hóa ngày nay, mua bán trong các giao dịch đóng bằng tiền và xa lánh nguồn gốc của chúng, quà tặng là duy nhất theo phạm vi  chúng có phần tham gia của người tặng. Thứ hai, sự toàn vẹn, phụ thuộc lẫn nhau: quà tặng mở rộng vòng tròn của bản thân để bao gồm toàn bộ cộng đồng. Trong khi tiền ngày nay là hiện thân của nguyên tắc “Nhiều hơn đối với tôi là ít hơn đối với bạn”, trong một nền kinh tế quà tặng, nhiều hơn với bạn cũng nhiều hơn đối với tôi bởi vì những người đã cho những người cần. Quà tặng củng cố sự nhận thức thần bí về sự tham gia vào một điều gì đó lớn hơn chính bản thân họ, tuy nhiên, không tách rời khỏi chính mình. Các tiên đề của sự thay đổi lợi ích hợp lý bởi vì bản thân đã mở rộng để bao gồm cái gì đó của cái khác.

Giải thích thông thường về cách tiền phát triển mà người ta tìm thấy trong các văn bản kinh tế giả định việc đổi chác là điểm khởi đầu. Ngay từ đầu, các cá nhân cạnh tranh tìm cách tối đa hóa lợi ích cá nhân hợp lý của họ. Mô tả lý tưởng hóa này không được hỗ trợ bởi nhân học. Trao đổi, theo Mauss, là hiếm ở Polynesia, hiếm ở Melanesia, và chưa từng thấy ở Tây Bắc Thái Bình Dương. Nhà nhân học kinh tế George Dalton đồng tình một cách dứt khoát, “Trao đổi, theo nghĩa chặt chẽ của trao đổi không tiền, chưa bao giờ là mô hình hay giao dịch quan trọng về mặt định lượng trong bất kỳ hệ thống kinh tế nào trong quá khứ hay hiện tại mà chúng ta có thông tin vật lý (hard information).8 Các trường hợp duy nhất của hàng đổi hàng, theo Dalton, là cho các giao dịch nhỏ, không thường xuyên hoặc khẩn cấp, giống như trường hợp ngày nay. Bên cạnh đó, các giao dịch đơn thuần hiếm khi giống với các giao dịch không chính đáng, tối đa hóa tiện ích của các nhà kinh tế giả tưởng, nhưng thay vào đó, “xu hướng yêu cầu các mối quan hệ cá nhân lâu dài (và đôi khi được nghi thức hóa) bị trừng phạt bởi tùy chỉnh và đặc trưng bởi tính tương hỗ.” 9 Các giao dịch như vậy không nên được gọi là trao đổi, mà là trao đổi quà tặng theo nghi thức.

8 Dalton, “Barter,” (Trao đổi), trang 182.

9 Seaford, Money and the Early Greek Mind (Tiền và Đầu óc người Hy Lạp thời đầu), trang 292.

P.s: đúng ra hôm nay phải post phần 10, nhưng mà luxubu chưa dịch. 😐